Binh lực và kế hoạch Chiến_dịch_Wisla-Oder

Quân đội Liên Xô

Binh lực

Nguyên soái G. K. Zhukov (năm 1941, lúc còn mang hàm Đại tướng), chỉ huy Phương diện quân Byelorussia

Kế hoạch

Tổng tư lệnh tối cao Stalin của Liên Xô để tưởng thưởng công lao của nguyên soái Xô Viết Georgy Konstantinovich Zhukov đã đặc biệt ưu ái vị nguyên soái này khi quyết định để Zhukov sẽ nhận được vinh dự đánh chiếm Berlin thủ đô nước Đức: Stalin điều nguyên soái Konstantin Konstantinovich Rokossovsky từ phương diện quân Byelorussia 1 – lực lượng sẽ phát triển về hướng Berlin – sang chỉ huy phương diện quân Byelorussia 2 để tấn công chiến dịch Đông Pomeraniachiến dịch Đông Phổ. Phương diện quân Belorussia 1 được trao cho nguyên soái G.K. Zhukov. Stalin còn chi tiết vạch tuyến ngăn cách tấn công của phương diện quân Zhukov với phương diện quân Ukraina 1 của nguyên soái I.S. Konev sao cho Berlin nằm trọn trong khu vực tiến quân của nguyên soái Zhukov. Những tế nhị trong quyết định này của tổng tư lệnh tối cao Xô Viết sau này được ba vị nguyên soái Liên Xô đề cập nhiều trong các hồi ký của mình sau chiến tranh.

Tổng hành dinh Xô Viết dự kiến bắt đầu chiến dịch vào ngày 20 tháng 1 năm 1945, nhưng theo thư của thủ tướng Anh Winston Churchill cho Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô Stalin đề nghị quân đội Xô Viết tấn công sớm chia sẻ gánh nặng với quân đội đồng minh đang khó khăn trong chiến dịch Ardennes nên Stalin đã chỉ thị hai nguyên soái Zhukov và Konev tấn công sớm vào ngày 12 tháng 1 năm 1945.

Từ ngày 12 tháng 1 đến 3 tháng 2 năm 1945 Hồng quân tổ chức chiến dịch Wisla–Oder đây là chiến dịch quân sự quy mô rất lớn đã đánh tan các lực lượng Đức trên hướng phòng thủ WarszawaBerlin, giải phóng gần hết Ba Lan và đặt sự tồn tại của Đế chế III chỉ còn tính từng tuần.

Tấn công chiến dịch Wisla–Oder là hai phương diện quân chủ đạo của Liên Xô:

Tổng cộng hai phương diện quân Zhukov và Konev có 2,2 triệu quân; 33,5 nghìn đại bácsúng cối; 7.000 xe tăngpháo tự hành; 5.000 máy bay chiến đấu với ưu thế về quân số và vũ khí gấp 4 đến 5 lần đối phương.

Lực lượng Đức phòng thủ tại hướng này là cụm tập đoàn quân A của Đức – tư lệnh đại tướng Josef Harpe (từ 17 tháng 1 năm 1945 là đại tướng Ferdinand Schörner) đó là các đơn vị: tập đoàn quân xe tăng số 4, tập đoàn quân dã chiến số 9 và 17. Khu vực phòng thủ của Đức được gia cố rất chắc chắn có 7 giải phòng ngự với chiều sâu từ 300 đến 500 km, ngoài ra các thành phố trong khu vực này đều đã được biến thành pháo đài trung tâm phòng ngự rất chắc chắn. Các sông trên hướng Warszawa–Berlin hầu hết đều chạy theo hướng nam – bắc và đã được quân Đức tận dụng biến thành các tuyến phòng thủ liên hoàn rắn chắc.

Ngày 12 tháng 1 năm 1945, phương diện quân Ukraina 1 của I.S. Konev từ bàn đạp Sandomir trên sông Wisla kết hợp với cánh phải của phương diện quân Belorussia 4 phát triển tấn công về phía tây và đây là chiến dịch Sandomir–Silesia phát triển tấn công theo hướng chung nhắm đến Breslau (Wroclaw).

Ngày 14 tháng 1 Phương diện quân Belorussia 1 kết hợp với cánh trái của phương diện quân Belorussia 2 tấn công từ 2 bàn đạp Pulava (Pulawy) và Magnushev(Gmina Magnuszew) đây là chiến dịch Warszawa–Poznan hướng tấn công nhắm vào phía Poznan.

Cho đến ngày 17 tháng 1, hai phương diện quân Xô Viết của Konev và Zhukov đã đè bẹp phòng thủ của các lực lượng chính của cụm tập đoàn quân A của Đức trên diện rộng gần 500 km và đột phá sâu 100–160 km. Quân đội Xô Viết đã giải phóng Warszawa, Radom, Chenstokhov (???), Radomsko, và hơn 2.400 thành phố và điểm dân cư của Ba Lan. Các lực lượng Đức được huy động từ Đức sang đã không thể vá lại lỗ thủng phòng ngự. Quân đội Xô Viết tấn công ào ạt với tốc độ trung bình 30–40 km một ngày đêm. Ngày 19 tháng 1, các đơn vị tiên phong của phương diện quân Konev là tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 3, tập đoàn quân cận vệ số 5 và tập đoàn quân 52 trong khi truy đuổi quân Đức đã tiến sâu vào đất Đức và cánh trái Konev đã giải phóng thành phố Krakov (Krakow). Từ ngày 20 đến 25 tháng 1, phương diện quân Zhukov đã đập tan tuyến phòng thủ sông Varta và tuyến Poznan, bao vây và tiêu diệt khối quân Poznan gồm 6 vạn quân Đức.

Từ ngày 22 tháng 1 đến 3 tháng 2 quân đội Xô Viết đã hoàn thành các mục tiêu của chiến dịch đã tiến đến sông Oder vượt sông và lập các bàn đạp trên bờ tây tại các khu vực Shteinau (???), Breslau, Oppelna (???) và Kiustrin (???). Cùng thời gian này phương diện quân Ukraina 4 bên trái của phương diện quân Konev giải phóng toàn bộ miền nam Ba Lan và miền Bắc Tiệp Khắc đến thượng nguồn con sông Wisla.

Vì hình thế của mặt trận đến lúc này tại hướng Berlin đã tạo thành một mũi nhọn ăn sâu về phía lãnh thổ Đức và tại hai sườn bắc và nam của Hồng quân là các khối quân Đức còn rất mạnh tại Pomerania, Đông PhổSilesia rất có thể sẽ phản công mạnh vào sườn hai phương diện quân Zhukov và Konev nên Bộ chỉ huy tối cao Xô Viết vào ngày 3 tháng 2 năm 1945 đã chủ động chấm dứt chiến dịch và ngay sau đó chuyển trọng tâm tấn công tiếp theo sang nhiệm vụ đánh tiêu diệt các khối quân Đức tại Pomerania, Đông Phổ và Silesia, đó là các chiến dịch Đông Pomerania, chiến dịch Đông Phổ, chiến dịch hạ Silesiachiến dịch thượng Silesia diến ra từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1945.

Sau chiến tranh giữa hai nguyên soái Xô Viết Georgy Konstantinovich Zhukov nguyên tư lệnh phương diện quân Belorussia 1 và nguyên soái Vasily Ivanovich Chuikov nguyên tư lệnh tập đoàn quân cận vệ số 8 thuộc phương diện quân này đã diễn ra tranh luận về tính hợp lý dừng chiến dịch hay nên phát triển tấn công tiếp chiếm Berlin trong hành tiến khi thủ đô Đức còn chưa kịp bố phòng vững chắc: nguyên soái Chuikov cho rằng nếu thêm vài nỗ lực tấn công tiếp thì Berlin đã thất thủ trong tháng 2 năm 1945. Trong khi đó Zhukov cho rằng cần thiết phải dừng lại để trước hết phải thủ tiêu các khối quân lớn của đối phương hai bên sườn mũi nhọn Hồng quân hướng đến Berlin.

Sau các chiến dịch trong tháng 2 đến tháng 4 năm 1945 này quân đội Đức về cơ bản đã trắng tay.